Đang tải...
Ngày đăng: 30/07/2020
Thay mặt NCERWASS, ông Nguyễn Sơn Tùng đã điểm lại những hoạt động đã được NCERWASS thực hiện trong tháng 7 bao gồm: Xây dựng kế hoạch thực hiện các chuyến công tác hỗ trợ kỹ thuật tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Cao Bằng, Bắc Kạn (dự kiến từ ngày 27/7 đến ngày 31/7); Cập nhật số lượng công trình kiểm đếm bền vững năm 2020; Hướng dẫn cán bộ đầu mối của NCERWAS về thực hiện và xây dựng kế hoạch thông tin giáo dục truyền thông cấp công trình; và đôn đốc các tỉnh về việc thực hiện kế hoạch bảo vệ môi trường và bổ sung giấy phép khai thác nước.
Một số nội dung cần triển khai trong thời gian tới cũng được phía Ngân hàng thế giới và NCERWASS thống nhất bao gồm: (1) Xây dựng kế hoạch đi thực địa và hỗ trợ kỹ thuật trong tháng 7 và tháng 8, trong đó tập trung hỗ trợ nhiều hơn cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Kon Tum và Gia Lai. (2) Hiện nay, vẫn còn 42/116 công trình nước năm 2019 chưa có giấy phép khai thác nước đặc biệt là ở các tỉnh Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên, Ninh Thuận. Do vậy NCERWASS cần tiếp tục đôn đốc các tỉnh nộp Giấy phép khai thác nước đúng thời hạn. (3) Nhiều tỉnh đang gặp một số khó khăn về kinh phí, nguồn nhân lực và năng lực thực hiện công tác truyền thông. Hiện mới có 12/21 tỉnh xây dựng kế hoạch truyền thông cấp tỉnh và cấp công trình. Do vậy NCERWASS cần tiếp tục hỗ trợ các tỉnh rà soát và xây dựng Kế hoạch truyền thông, đồng thời xây dựng chương trình và tài liệu đào tạo về truyền thông để các tỉnh tham khảo, áp dụng cho các lớp tập huấn cho cán bộ xã và tổ vận hành công trình.
Ngoài ra, phía Ngân hàng thế giới cũng yêu cầu NCERWASS tập trung hướng dẫn các tỉnh thực hiện công tác truyền thông tại cộng đồng khi thực hiện các chuyến công tác thực địa về hỗ trợ kỹ thuật để đảm bảo đến tháng 8 năm 2020, tất cả 21 tỉnh sẽ hoàn thành phê duyệt kế hoạch IEC cho năm 2020. Tại cuộc họp, Ngân hàng thế giới cũng làm rõ một số thông tin quan trọng về các tiêu chí bền vững cho các công trình sẽ kiểm đếm chỉ số đấu nối bền vững (DLI 3.1) như: