Đang tải...

lang-vi
lang-en

Trung tâm quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn

National center for rural water supply and environmental sanitation

Giải pháp nào để đảm bảo chất lượng nguồn nước và vệ sinh môi trường cho người dân sau lũ?

Ngày đăng: 21/10/2022

 

Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Nhà báo Nguyễn Khánh Toàn – Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống chia sẻ: Nước sạch và vệ sinh môi trường luôn được coi là yếu tố mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia, đặc biệt trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Theo đó, thực trạng mỗi mùa mưa lũ qua đi, không những cướp đi người và của cải vật chất, rất nhiều địa phương còn đứng trước nguy cơ thiếu nước sạch và vấn đề vệ sinh môi trường.

Đánh giá về thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước hiện nay cũng như việc khan hiếm và khó khăn về nguồn nước, địa phương thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, ông Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết: Việt Nam đang phải đối mặt chỗ quá thừa chỗ quá thiếu, chỗ quá bẩn, ở góc độ Ngân hàng Thế giới đã nhận xét về tài nguyên nước của Việt Nam. Nước ta thực tế có khoảng 840 tỷ m3/năm. 

Tuy nhiên, nhu cầu về sử dụng phân bổ không đồng đều giữa các vùng, nguồn nước mà có thể khai thác được cũng không thể đồng đều giữa các vùng cũng như là các mùa, mùa khô lượng nước trong tổng 840 tỷ m3/năm chỉ chiếm khoảng 15 - 20% và một số nơi còn xuống dưới 15%, ví dụ một số năm như 2016, của vùng ĐBSCL lượng nước chỉ còn dưới 10% và sinh ra hạn mặn đặc biệt nghiêm trọng năm 2015 và đầu năm 2016.

Hiện nay, một số địa phương vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn. Một số tỉnh như: tỉnh Sơn La với trữ lượng nước mặt khoảng 19 tỷ m3/năm, tuy nhiên một số vùng thuộc huyện Mộc Châu vẫn thiếu nước nghiêm trọng. Vùng miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An người dân cũng đang thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt. Tại tỉnh Hà Tĩnh mặc dù lượng nước nhiều nhưng hàng năm vẫn thiếu khoảng 95 triệu m3 nước cho sản xuất và sinh hoạt.

Việt Nam rất chú trọng trong việc giải quyết an ninh nguồn nước, tức là giải quyết tình trạng quá thừa, quá thiếu, quá bẩn. Trong kế hoạch những năm tới và dài hơn đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị trình các cấp để có kế hoạch cụ thể.

Nói về về chất lượng nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường của người dân vùng lũ hiện nay, ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy - Phó trưởng khoa Sức khỏe môi trường và cộng đồng - Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường (Bộ Y tế◊) cho hay: Thực hiện chức năng nhiệm vụ do Bộ Y tế giao, Viện SKNN&MT đã kiểm tra, giám sát việc thực hiện đảm bảo chất lượng nước các địa phương, trong đó có địa phương xảy ra bão lũ. 

Kết quả năm 2021 tại 32 tỉnh, thành phố phía Bắc và một số tỉnh miền trung cho thấy hầu hết nước sạch cung cấp cho người dân theo mô hình cấp nước tập trung đều đảm bảo theo quy chuẩn Việt Nam và an toàn cho người sử dụng, một số ít mẫu nước không đạt chỉ tiêu về clo dư tự do; chỉ số pecmanganat, độ đục, coliforms và E.coli...

Tuy nhiên, trong mùa bão lũ, chất lượng nước máy (mô hình cấp nước tập trung) có thể bị ảnh hưởng ít nhiều. Đặc biệt chỉ tiêu về độ đục và vi sinh vật. Do vậy, trong thời điểm này các đơn vị cung cấp nước cần phải tăng cường bảo vệ nguồn nước nguyên liệu và giám sát chặt chẽ trong quá trình vận hành hệ thống xử lý nước.

Nguồn nước do các hộ gia đình tự khai thác nước, đặc biệt là giếng đào) và bể chứa nước ngầm ở các chung cư, hộ gia đình rất dễ bị ô nhiễm do nước bên ngoài tràn vào làm bẩn nguồn nước.

Với nhìn nhận của mình Tiến sĩ Nguyễn Thế Đồng – Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho biết: Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới trong những năm gần đây thời tiết cực đoan ngày càng trở nên thường xuyên hơn đánh giá về nguyên nhân sâu xa đây là tác động của biến đổi khí hâu gây nên hiện tượng thời tiết cực đoan, thực tế hàng năm nhiều vùng đối mặt hoặc là lũ lụt hay hạn hán chưa từng có, chúng ta đối mặt với những đợt mưa lũ lịch sử, hạn hán lịch sử. Làm sao để khắc phục hậu quả này chúng ta phải ngày càng quan tâm hơn về tác động của biến đổi khí hậu.

Bảo đảm, phục hồi, tái thiết nguồn nước sạch và vệ sinh môi trường ở các địa phương sau lũ cần những giải pháp cấp bách mang tính bền vững để người dân ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất.

Trao đổi về kịch bản cho từng vùng trong trường hợp thiếu nước sạch, Ông Nguyễn Thành Luân - Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn , Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, ◊hướng dẫn cách bảo quản các công trình cấp nước tập trung và cấp nước hộ gia đình cũng như xử lý nước vùng lũ, công trình cấp nước vùng hạn hán, để giải quyết nhanh chóng nguồn nước hợp vệ sinh trong mưa lũ và hạn hán. Về lâu dài, cần có các giải pháp đồng bộ, trước hết muốn có nước cần có nguồn nước đảm bảo. Ví dụ, các vùng hạn hán cần có các hồ chưa nước thủy lợi và hồ chứa nước phục vụ dân sinh, để khi xảy ra hạn hán hay mưa lũ, nguồn nước bị cạn kiệt hoặc bị ô nhiễm thì có nguồn nước dự trữ để xử lý. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là để giải quyết được thực trạng này cần nguồn kinh phí lớn. Vì vậy, chúng tôi đề xuất trong thiết kế công trình cấp nước phải tính toán đến yếu tố biến đổi khí hậu.

Trao đổi tại buổi Tọa đàm, ông Nguyễn Minh Khuyến cho biết: ◊Mục tiêu phát triển bền vững "Đảm bảo nguồn cung cấp và quản lý bền vững tài nguyên nước và các điều kiện vệ sinh an toàn cho tất cả mọi người" (SDG6) đến năm 2030 có 6 mục tiêu SDGs cụ thể gồm các nội dung như: hiệu quả sử dụng nước, giải quyết tình trạng khan hiếm nước, phục hồi các hệ sinh thái liên quan đến nước, sự tham gia của các cộng đồng địa phương nhằm cải thiện việc quản lý nước vốn đang được thực hiện thông qua các văn bản pháp quy của lĩnh vực tài nguyên nước hiện có như các quy trình vận hành liên hồ chứa có xem xét tính toán nước cho các hệ sinh thái liên quan; ưu đãi cho sử dụng tài nguyên nước tiết kiệm và hiệu quả; thành lập các tổ chức lưu vực sông,...

Để bảo đảm an ninh nguồn nước và hướng tới thực hiện các mục tiêu SDG6, ở Việt Nam hiện tại cũng như trong thời gian sắp tới và lâu dài, tại Kết Luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị, nhiệm vụ ngắn hạn có, dài hạn cũng có, đảm bảo cấp nước, số lượng chất lượng nước cho sinh hoạt cho sản xuất là mục tiêu ở trong Kết luận này và trong Đại hội Đảng XIII cũng đề cập, đến năm 2030, 100% dân số đô thị và 80% dân số nông thôn được sử dụng nước đảm bảo an toàn đó là mục tiêu cụ thể.

Trong Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ trách nhiệm của các bộ ngành về nâng cao chất lượng về quy hoạch, giám sát các quy hoạch đây là những nhiệm vụ rất cần thiết đã được chỉ ra trong kết luận này. Ngoài ra, trong phòng chống giảm thiểu tác hại do nước gây ra như ngập lụt, hạn hán, ô nhiễm đó là những nhiệm vụ chúng ta đã, đang làm và cần phải giám sát chặt chẽ hơn.

Đối với lĩnh vực tài nguyên nước mà Bộ Tài nguyên và Môi trường đang quản lý, những nhiệm vụ của Kết luận số 36-KL/TWcủa Bộ Chính trị cũng như các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), những chỉ đạo của Đảng, Nhà nước được cập nhật vào trong Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm đảm bảo an ninh tài nguyên nước.

Cần có nhiều các giải pháp để tập trung giải quyết vấn đề để các hộ dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa đặc biệt các vùng hay bị thiên tai như lũ lụt hạn hán được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh và đảm bảo sức khỏe, ông Nguyễn Thành Luân cho biết, về cụ thể Bộ NN&PTNT đang hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ xây dựng Nghị định cũng như Thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện về cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn.

Và đang đề nghị sửa đổi chính sách tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội để giúp người dân ở vùng sâu, vùng xa, người dân nghèo có thể tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi để vay xây dựng cải thiện nâng các công trình cấp nước quy mô hộ gia đình.

Chúng tôi đang tập chung đầu tư xây dựng các dự án đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021- 2025 cho các vùng đặc biệt khó khăn như vùng núi Hà Giang, Cao Bằng và các vùng nhiễm mặn như Đồng bằng sông Cửu Long và triển khai chính sách ưu đãi để xây dựng các mô hình thí điểm và đồng thời công tác truyền thông vận động người dân có ý thức bảo vệ nguồn nước các công trình cấp nước tập chung cũng như các công tác hợp tác quốc tế kêu gọi các tổ chức quốc tế tiếp tục tài trợ, hỗ trợ các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đặc biệt hộ dân vùng sâu vùng xa và trong các trường hợp bị thiên tai lũ lụt, hạn hán xảy ra, các tổ chức quốc tế vận động các nguồn tài trợ nhanh chóng hỗ trợ để đảm bảo các nguồn nước sinh hoạt hợp vệ sinh cho người dân nông thôn tránh bệnh tật xảy ra, ông Luân cho biết thêm.

Nói về ◊công tác phòng chống thiên tai, đảm bảo công tác khám chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh trong tình trạng ngập lụt kéo dài, ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy cho biết: Ngay từ khi chuẩn bị bước vào mùa mưa bão, Bộ Y tế đã có văn bản yêu cầu Sở Y tế các tỉnh, thành phố và các đơn vị trực thuộc Bộ chủ động ứng phó với thiên tai những tháng cuối năm. Luôn có kế hoạch ứng phó và diễn tập để chuẩn bị sẵn sàng với các tình huống xảy ra.

Ngành y tế sẵn sàng cung ứng đủ thuốc thiết yếu/vật tư y tế, phương tiện cấp cứu, truyền thông phòng chống dịch bệnh và các tai nạn có thể xảy ra như điện giật, đuối nước... Duy trì phòng chống dịch Covid-19, sốt xuất huyết và các bệnh truyền nhiễm khác và đặc biệt chú ý đến công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân trong vùng bị chia cắt. Dự trữ và cung cấp đầy đủ hóa chất làm trong và khử khuẩn nước cho từng hộ gia đình ở những vùng trọng điểm để xử lý môi trường và nguồn nước khi có mưa, bão, lũ lụt xảy ra.

Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Thế Đồng, lũ lụt hạn hán liên quan đến vấn đề nước sạch là vấn đề kéo dài, làm sao để có thể có những kế hoạch phòng chống nâng cao nhận thức cộng đồng, trước hết vai trò của cơ quan truyền thông rất quan trọng chúng ta đã và đang tuyên truyền kết hợp cơ quan khác nhau để đảm bảo hiệu quả, hiện nay nhận thức cơ bản dân cư tập chung tại đô thị đã được nâng cao, vấn đề ô nhiễm nguồn nước ở các vùng nông thôn miền núi chúng ta cần quan tâm hơn nữa, giữa nhận thức hiểu biết đến thức hiện thì đó vấn còn là khoảng cách, đã hiểu những còn lúng túng, các địa pương cần có chương trình bên cạnh việc tuyên truyền còn cũng phải có những kế hoạch kêu gọi ở các cấp khác nhau. T

ừ cấp Trung ương ứng phó thiên tai, những vùng nào dễ bị ngập lụt, có những phân mềm theo dõi tình trạng ngập lụt, trên cơ sở dự báo, từ cấp chính quyền địa phương đến người dân có những kế hoạch cơ bản để ứng phó khi xảy ra mưa lũ, khi đó người dân sẽ chủ động hơn. Ứng phó lũ lụt đảm bảo nâng cao nhận thức là một phần, cần sự đồng bộ từ các ngành, các cấp chung tay để đảm bảo chất lượng nước sạch và vệ sinh môi trường vào mùa mưa lũ.

 

message zalo